Lịch sử và phân bố Ổi (thực vật)

Chồi lá ổi

Nguồn gốc

Phạm vi phân bố bản địa của ổi không chắc chắn. Nhiều nhà thực vật học cho rằng loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, có thể từ miền nam Mexico đến Nam Mỹ, nhưng sự phân bố của loài đã được mở rộng đáng kể thông qua trồng trọt và hiện nay đã phổ biến khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hiện nay, loài này được du nhập ở vùng nhiệt đới Cựu Thế giới và Tây Ấn.[11] Một số tác giả cho rằng ổi có nguồn gốc từ châu Á, có lẽ do Linnaeus vào năm 1753 đã mô tả loài này dựa trên các bộ sưu tập Cựu Thế giới. Tuy nhiên, loài được Fernandez de Oviedo trình báo dưới cái tên guayabo vào năm 1535 vì chúng phân bố rộng rãi ở Tây Ấn, cả được trồng và trong tự nhiên. Đây chỉ là một vài thập kỷ sau khi phát hiện ra Tân Thế giới và do đó rất khó có khả năng loài này đã được du nhập và có thể lan rộng khắp Tây Ấn trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. Loài này có lẽ đã được đưa vào Tây Ấn do sự di cư của người cổ đại từ miền bắc Nam Mỹ.[5]

Du nhập

Ổi phân bố khắp vùng nhiệt đới là kết quả khi con người đưa vào sử dụng rộng rãi có chủ đích như một loại cây ăn quả thương mại. Cây ổi đã được du nhập rộng rãi đến mức chúng có thể có mặt ở hầu hết các quốc gia có khả năng trồng trọt. Người Tây Ban Nha đã đưa ổi về phía đông qua Thái Bình Dương và người Bồ Đào Nha đã đưa ổi về phía tây tới Châu Phi và Ấn Độ. Hiện nay, ổi được phân bố và du nhập tốt khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Do dễ trồng, giá trị dinh dưỡng cao của quả và sự phổ biến của các sản phẩm chế biến, ổi rất quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như thị trường địa phương của hơn 60 quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Sản xuất lớn nhất là các nước ở Trung và Nam Mỹ (Brazil, Mexico), Ấn Độ và Thái Lan (100.000 tấn vào năm 1981–82). Sản lượng ngày càng tăng ở Caribe, Hawaii, Florida (Mỹ) và Nam Phi.[5]

Năm 1961, một chương trình nghiên cứu và cải tiến ổi đã được chính phủ Colombia phát động. Năm 1968, ước tính có khoảng 10 triệu cây ổi hoang (xung quanh Santander, Boyacá, Antioquia, Palmira, Buga, CaliCartago), nặng 88 lbs (40 kg) mỗi năm và chỉ có 10% số quả ổi được sử dụng trong chế biến. Tỉnh Bogotà chiếm 40% sản lượng và sản phẩm bảo quản được xuất khẩu sang các thị trường Venezuela và Panama.[9]

Tại Brasil, ngành trồng ổi hiện đại dựa trên hạt giống chọn lọc của Úc được trồng trong vườn thực vật của Công ty Đường sắt São Paulo tại Tatu. Các đồn điền được nông dân gốc Nhật Bản phát triển tại Itaquara và đây đã trở thành khu vực sản xuất ổi hàng đầu ở Brazil. Ổi là một trong những loại trái cây hàng đầu của México, nơi tổng sản lượng đạt 192.850 tấn trên diện tích 14.750 ha, hàng năm. Những năm gần đây có chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá và chọn lọc các giống tốt để nhân giống sinh dưỡng và trồng trọt quy mô lớn.[9]

Tại Florida, Hoa Kỳ, ổi được du nhập vào năm 1765[7] và trồng thương mại đầu tiên vào khoảng năm 1912 tại Palma Sola. Số khác xuất hiện tại Punta GordaOpalocka. Một vườn ổi rộng 16 ha được Miami Fruit Industries trồng tại thị trấn Indian vào năm 1946. Đã có hơn hai tá nhà sản xuất thạch ổi trên khắp tiểu bang. Một doanh nghiệp tại Sarasota chế biến 250 giạ ổi mỗi ngày và một nhà chế biến ở quận Pinellas vận hành một nhà máy công suất 150 giạ vào năm 1946. Luôn có thị trường ổn định cho các sản phẩm ổi ở Florida và nhu cầu đã tăng lên trong những năm gần đây cùng với làn sóng tràn vào của người Caribe và người Mỹ Latinh.[9]

Ở nhiều nơi trên thế giới, ổi mọc hoang và tạo thành những bụi cây rộng lớn. Cây tràn lan mạnh mẽ trên các đồng cỏ, cánh đồng và lề đường ở Malaysia. đảo Hawaii, New Caledonia, Fiji, quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ, Puerto Rico, Cuba và miền nam Florida đến mức bị xếp vào loại cây dại độc hại cần bị diệt trừ. Tuy nhiên, ổi hoang vẫn chiếm phần lớn nguồn cung cấp thương mại. Năm 1972, Hawaii chế biến để sử dụng trong nước và xuất khẩu hơn 2.500 tấn ổi, hơn 90% là từ cây ổi hoang. Thời kỳ nhu cầu cao trong Thế chiến thứ hai, vụ ổi dại ở Cuba được cho đạt 10.000 tấn và hơn 6.500 tấn sản phẩm ổi đã được xuất khẩu.[9] Cây ổi phân bố rộng rãi trên tất cả các hòn đảo chính của Hawaii, trên nhiều điều kiện đất đai khác nhau và có thể hình thành những bụi rậm dày đặc tại đây.[14]

Xâm lấn

Một số tác giả xem ổi là loài có tính xâm lấn cao.[11][15] Ở New Zealand, chúng được xem là một loài cây dại tiềm ẩn vấn đề.[16] Đây là một trong những loài du nhập đầu tiên vào quần đảo Galápagos được công nhận vì hành vi xâm lấn của loài. Tại Galápagos, cây chỉ hiện diện trên các hòn đảo có người ở và là một trong số các loài gây ra thiệt hại môi trường nghiêm trọng ở đó.[17]

Ở một số quần đảo Thái Bình Dương, cũng như ở các nước Trung Mỹ như Costa Rica, ổi là một loại cây dại quan trọng trên đồng cỏ, nơi khó diệt trừ và dẫn đến suy thoái đất.[18] Trên đảo Chuuk ở Thái Bình Dương, liệt kê chúng trong số các loài được biết là xâm lấn ở nơi khác và được trồng, phổ biến hoặc mọc hoang trên đảo.[19] Ổi cũng là một loại cây dại trong môi trường sống nông nghiệp ở Puerto Rico (Cơ quan quản lý đường cao tốc liên bang, 2001) và là loài xâm lấn ở Bermuda. Ổi có khả năng tái sinh ở những khu vực bị xáo trộn tại vùng rừng Budongo, Uganda.[20] Thật vậy, nhiều tác giả liên kết sự phát tán của ổi với các sự kiện xáo trộn, ví dụ như ở các vùng đất trống bị bão tàn phá hoặc hoạt động khai thác gỗ.[5]

Ổi đã được du nhập rộng rãi đến mức có mặt ở hầu hết các quốc gia có khả năng trồng. Do đó, điều rủi ro là một trong những loài thực vật trồng canh tác thoát ra môi trường hoang dã. Do việc sản xuất ổi ở nhiều quốc gia diễn ra tại trang trại nhỏ và vườn nhà nên điều này khó có khả năng kiểm soát được; do đó giám sát để phát hiện sớm các dấu hiệu xâm lấn sẽ rất thận trọng.[5] Tại Bahamas, ổi được xếp là Thực vật xâm lấn loại 2. Tại Florida, Hoa Kỳ, ổi phân tán thành vùng võng, ở đồi thông và dưới tán cây bách;[7] xuất hiện trong danh sách Thực vật ngoại lai gây hại năm 1999, chúng được mô tả là loài xâm lấn loại 1 đang làm thay đổi quần thể thực vật. Ở Nam Phi, ổi xâm lấn sinh cảnh trảng cỏ và ven đường; được tuyên bố là loài xâm lấn loại 2 theo Đạo luật Bảo tồn Tài nguyên Nông nghiệp năm 1983.[21]

Chim và thú ăn quả ổi và phát tán hạt,[11] ví dụ chuột và lợn hoang. Theo Trung tâm Nông Lâm Thế giới (2002), tác nhân phát tán chính của ổi là dơi. Ổi được trồng rộng rãi trong vườn cây, như một loài nông lâm kết hợp. Từ đó, ổi có thể thoát khỏi vùng canh tác và xâm chiếm các địa điểm bị xáo trộn trong môi trường bán tự nhiên và tự nhiên. Loài này phân bố khắp vùng nhiệt đới là kết quả của sự du nhập rộng rãi có chủ ý như một loại cây ăn quả thương mại. Sự xâm lấn này đã ảnh hưởng đến đất canh tác và cây trồng khác.[5]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ổi (thực vật) https://www.iucnredlist.org/species/49485755/49485... https://doi.org/10.2305%2FIUCN.UK.2019-1.RLTS.T494... https://www.biodiversitylibrary.org/page/358489#pa... https://doi.org/10.1016%2Fj.jep.2008.01.025 https://ecommons.library.cornell.edu/bitstream/181... https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/18353572 https://www.feedipedia.org/node/111 https://rttc.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=8134&u... http://powo.science.kew.org/taxon/urn:lsid:ipni.or... https://thanhnien.vn/ngon-vuot-troi-nem-chua-la-oi...